Kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Ngày 9-2-2022, cuốn sách “Một số vấn đề lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt. Cuốn sách là kết quả của quá trình tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, vấn đề kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta hiện nay.
Vấn đề kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất quan trọng đối với nước ta hiện nay. (Ảnh: dangcongsan.vn).
Quan điểm chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được nhấn mạnh trong bài phát biểu tại Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai Kết luận và Quy định của Ban Chấp hành Trung ương Ðảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Ðảng, ngày 9/12/2021 (Sự lãnh đạo của Ðảng là nhân tố hàng đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam).
Sở dĩ Tổng Bí thư nhấn mạnh đến điều này do xuất phát từ cả những nguyên nhân khách quan và chủ quan, cả tình hình quốc tế, khu vực và những diễn biến trong nước. Trên thế giới, chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa dân túy đang nổi lên, các vấn đề an ninh phi truyền thống vẫn đang tiếp diễn. Trong nước, sự nghiệp đổi mới tuy được đẩy mạnh toàn diện nhưng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức lớn như: Sự chống phá của các thế lực thù địch, tổ chức phản động ngày càng tinh vi hơn; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ và tình hình tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... còn diễn biến phức tạp”(1). Nguy hiểm hơn, một số cán bộ, đảng viên có biểu hiện phai nhạt lý tưởng cách mạng, không kiên định con đường xã hội chủ nghĩa, mơ hồ, dao động, thiếu niềm tin; nói trái, làm trái quan điểm, đường lối của Ðảng.
Theo Tổng Bí thư, “từ sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống dẫn tới “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” chỉ là một bước ngắn, thậm chí rất ngắn, nguy hiểm khôn lường, có thể dẫn tới tiếp tay hoặc cấu kết với các thế lực xấu, thù địch, cơ hội, phản bội lại lý tưởng và sự nghiệp cách mạng của Ðảng và dân tộc”(2). Nhận định này là sự tiếp tục bổ sung, hoàn thiện thêm quan điểm của Ðảng về một trong bốn “nguy cơ” đang đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Ðảng, của chế độ ta.
Có thể nhận thấy tính biện chứng được thể hiện rất rõ trong quan điểm của Tổng Bí thư về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nếu “kiên định, phát triển” là kiên trì làm theo, đi theo những quan điểm, tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh; làm cho những quan điểm, tư tưởng ấy ngày càng sinh động, có thêm những nội hàm mới thì “vận dụng sáng tạo” là sự chắt lọc những quan điểm của Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho phù hợp thực tiễn Việt Nam, tránh sự máy móc, sơ cứng, giáo điều.
Quan điểm của Tổng Bí thư về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vừa cho thấy sự vững vàng về lập trường tư tưởng, vừa cho thấy tính biện chứng trong nguyên tắc vận dụng và kế thừa. Thực tiễn hơn 92 năm ra đời, phát triển của Ðảng và hơn 35 năm đổi mới đất nước với những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử khiến cho đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế, uy tín quốc tế như ngày nay. Những thành tựu đó đã chứng tỏ sự kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của Ðảng ta là hoàn toàn đúng đắn, vừa đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, vừa phù hợp xu thế khách quan.
Do đó, để quán triệt quan điểm chỉ đạo đồng chí Tổng Bí thư, Ðảng ta đã bổ sung thêm quy định liên quan trực tiếp đến lập trường tư tưởng, thái độ của đảng viên đối với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong Quy định số 37-QÐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm. Ðó là đảng viên không được “phản bác, phủ nhận, xuyên tạc chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh”(3). Ðây là sự bổ sung kịp thời nhằm khắc phục triệt để những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị của đảng viên trong giai đoạn hiện nay.
Quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư về kiên định, phát triển và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh có ý nghĩa rất to lớn đối với đất nước ta và mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay. Mặt khác, quan điểm đó đã chỉ ra nguyên tắc có tính phương pháp luận trong việc xây dựng đường lối, hoạch định chính sách; mặt khác đặt ra yêu cầu cho mỗi cán bộ, đảng viên. Ðó là phải kiên định về lập trường tư tưởng, sáng tạo trong phát triển và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoạt động thực tiễn. Quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư trong bài viết chính là kết quả của sự tổng kết thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí trong thời gian qua, đồng thời là sự phát triển lý luận về sự lãnh đạo của Ðảng lên một tầm cao mới.
Trong giai đoạn hiện nay, khi các thế lực thù địch đang ra sức chống phá chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh bằng những thủ đoạn rất tinh vi, quan điểm chỉ đạo của Tổng Bí thư không chỉ cổ vũ, động viên mà còn tạo thêm niềm tin và sức mạnh cho mỗi chúng ta trong việc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Quan điểm đó cũng định hướng cho chúng ta trên con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trên con đường đó, chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục là nền tảng tư tưởng, là “kim chỉ nam” cho mọi hành động.
TS LÊ THỊ CHIÊN (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh)
Theo Báo Nhân Dân
————
(1) Ðảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr.164.
(2) Nguyễn Phú Trọng, Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.376.
(3) Ðảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.110.