MỘT THỜI ĐẠI MANG TÊN HỒ CHÍ MINH

Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 mở ra thời đại Hồ Chí Minh, thời đại của sự nghiệp giải phóng đất nước ra khỏi ách đô hộ của chủ nghĩa thực dân phương Tây, kiến lập nền dân chủ, cộng hòa; thời đại dân tộc nỗ lực thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu để đến với mục tiêu độc lập, tự do, hạnh phúc trong nghĩa trọn vẹn của nó.

Khó có tên gọi nào thích hợp hơn, sát đúng hơn tên gọi “thời đại Hồ Chí Minh” cho tất cả những biến đổi như trên, có thể nói là đã được bắt đầu từ những gì có liên quan đến người thanh niên Nguyễn Tất Thành.

Chào đời năm 1890-năm Canh Dần và từ năm 1911, ở tuổi 21, người thanh niên ấy đã làm một cuộc đi dài nhất so với bất cứ anh hùng, chí sĩ yêu nước nào ở đầu thế kỷ 20. Đó là cuộc đi sang phương Tây, qua nhiều lục địa, rồi về Paris, trung tâm của chủ nghĩa tư bản hiện đại và cũng là trung tâm của phong trào cách mạng vô sản thế giới, viết Bản án chế độ thực dân Pháp, viết những lời tiên tri trong Đông Dương vào tháng 4-1921: “Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến. Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi”. Và Nguyễn Ái Quốc chính là hạt giống đó.

Người có cuộc đi dài nhất, vòng quanh thế giới, cũng là người có cuộc đi lâu nhất, những 30 năm, từ 1911 đến 1941 mới trở về Pác Bó, viết diễn ca Lịch sử nước ta, 208 câu, vào đầu năm 1942, trong đó có một dòng tiên tri, ghi ở mục “Những năm quan trọng”: “1945-Việt Nam độc lập”. Và tháng Tám năm 1945, người thiết kế vĩ đại cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa.

Lịch sử tiếp tục thử thách nghiệt ngã số phận dân tộc, khiến vị Chủ tịch nền dân chủ đầu tiên phải trở thành Tổng tư lệnh tối cao trong hai cuộc chiến kéo dài hơn 30 năm. Hai cuộc chiến với quyết tâm: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” trong chống Pháp, đến khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” trong chống Mỹ. Cùng với Tuyên ngôn Độc lập, hai lời kêu gọi của Hồ Chí Minh trong hai cuộc kháng chiến gối liền nhau đã thành lời của núi sông, lời non nước.

Cả một dân tộc đã nhất tề xông lên trong khí thế chống Pháp: Quân ta khí mạnh nuốt Ngưu Đẩu/ Thề diệt xâm lăng lũ sói cầy (“Lên núi”, 1950) đến cao trào chống Mỹ: Lục khắp giấy tờ vần chửa thấy/ Bỗng nghe vần “thắng” vút lên cao (“Không đề”, 1968).

Ở thời điểm vẫn còn 7 năm nữa mới đến Đại thắng mùa Xuân 1975, lòng tin vào chiến thắng cuối cùng đã được Hồ Chí Minh nói đến trong Di chúc, qua hai câu thơ: Còn non, còn nước, còn người/ Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay!

Thế kỷ 20, trong tên gọi “thời đại Hồ Chí Minh” đã vận hành theo những mục tiêu mà Hồ Chí Minh đã xác định nhằm phục hưng dân tộc sau ngót 100 năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Đó là độc lập, tự do, hạnh phúc, trên nền tảng dân chủ cộng hòa. Đó là việc đánh thắng 3 loại giặc: Giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm được nêu ngay từ sau tháng 8-1945, là mục tiêu của cả dân tộc. Sau độc lập, tự do thì hạnh phúc, đó chính là cơm ăn, áo mặc, học hành. “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(*)-tức là việc thoát nghèo đói, là cuộc chiến chống đói nghèo, phải nói là cực kỳ gian khổ, bởi sự tồn tại quá lâu trong hàng nghìn năm ở Việt Nam một phương thức sản xuất phong bế, lạc hậu và bởi sự thống trị tàn bạo hàng trăm năm của chủ nghĩa thực dân. Cả 3 loại giặc: Đói, dốt, ngoại xâm (xa và gần) khiến cho mọi tiềm năng của lịch sử phải được huy động để chống, để đánh, để giành chiến thắng và để tồn tại trong danh dự... Một thế kỷ đối diện với mọi loại kẻ thù bên ngoài, gồm các thế lực xâm lược, xa và gần; cùng với mọi kẻ thù bên trong, đó là cái nghèo, cái đói, cái dốt với những nguyên nhân trực tiếp và sâu xa của nó.

Năm 2020-ngót 35 năm đất nước đổi mới (từ 1986), trong đó có 25 năm hội nhập (từ 1995), trong bối cảnh toàn cầu hóa và kỷ nguyên cách mạng thông tin, sau năm kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Bác được công bố trong lễ tang trên Quảng trường Ba Đình vào 9 giờ ngày 9-9-1969, hơn chín mươi triệu công dân Việt hôm nay vẫn đang tiếp tục sự nghiệp mà Hồ Chí Minh đã khởi công và tạo dựng để đến với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

GS PHONG LÊ

_______

(*) Trả lời các nhà báo, tháng 1-1946; Hồ Chí Minh tuyển tập; tập I; Nxb Sự thật; 1980


(*) Xem thêm

Bình luận
Đã thêm vào giỏ hàng